Search This Blog

Thursday, December 10, 2015

XI. − Retour / Trở lại


XI. − Retour

XI. Trở lại

La vue (1) se découvrait au sortir du bois. Nous étions arrivés au bord des étangs de Châalis. Les galeries (2) du cloître, la chapelle aux ogives (3) élancées, la tour féodale (4) et le petit château qui abrita les amours de Henri IV et de Gabrielle se teignaient des rougeurs du soir (5) sur le vert sombre de la forêt (6). " C'est un paysage de Walter Scott (7), n'est-ce pas ? disait Sylvie. − Et qui vous a parlé de Walter Scott (7)? lui dis-je. Vous avez donc bien lu depuis trois ans !... Moi, je tâche d'oublier les livres, et ce qui me charme, c'est de revoir avec vous cette vieille abbaye (8), où, tout petits enfants, nous nous cachions dans les ruines (9). Vous souvenez-vous, Sylvie, de la peur que vous aviez quand le gardien (10) nous racontait l'histoire des moines rouges ? − Oh ! ne m'en parlez pas. − Alors chantez-moi la chanson de la belle fille enlevée au jardin de son père, sous le rosier blanc (11). − On ne chante plus cela. − Seriez-vous devenue musicienne ? − Un peu. − Sylvie, Sylvie, je suis sûr que vous chantez des airs d'opéra (12)! − Pourquoi vous plaindre ? − Parce que j'aimais les vieux airs, et que vous ne saurez plus les chanter. "
Sylvie modula quelques sons d'un grand air d'opéra moderne (13)... Elle phrasait !

Ra khỏi khu rừng, nhãn quang (1) nhìn khung trời mở rộng. Chúng tôi đã tới bên bờ những hồ nước Châalis, những hồi lang (2) của tu viện, ngôi nhà thờ với những ngọn tiêm cung (3) dong dỏng cao vút ngọn tháp thời phong kiến (4) và ngôi điện nho nhỏ đã nung nấu che chở những tình ái u nùng, giữa hoàng đế Henri đệ tứ và nương tử Gabrielle tất cả đều nhuốm màu ráng đỏ hoàng hôn (5) man mác bao phủ màu lục đậm núi ngàn (6). “Đó là một phong cảnh của Walter Scott (7), phải không anh?” Sylvie nói. – "Ai đã nói với em về Walter Scott (7)? Thế thì từ ba năm nay, em đọc sách nhiều lắm?... Anh, anh gắng quên sách vở, và cái gì thu hút anh, cái gì anh mơ ước, ấy là chính cùng em nhìn lại ngôi tu viện (8) cũ kỹ này. Em nhớ đó, chính đấy là chỗ thuở nhỏ chúng mình đã trốn nhau giữa những phế tích hoang tàn (9). Em nhớ không, Sylvie, khi người kiểm lâm (10) kể cho chúng ta nghe sự tích những tu sĩ áo đỏ, thì em đã sợ hãi như thế nào?" – "Ồ! Anh đừng nói chuyện đó với em nữa." – "Vậy thì em hãy ca cho anh nghe bài ca của cô gái xinh đẹp bị bắt đi khỏi khu vườn của cha mẹ, dưới cây bạch tường vi (11)." – "Ngày nay, người ta không ca bài đó nữa." – "Chẳng lẽ em đã trở thành nhạc sĩ hay sao?" – "Chút ít." – Sylvie, Sylvie, anh tin chắc rằng em ca những điệu nhạc kịch trường (12)! – "Anh phàn nàn ư? Có chi để phiền trách?" – "Bởi vì anh yêu chuộng những điệu hát xưa, và em sẽ không còn hát chúng nữa.”

Sylvie ngân lên vài thanh âm một điệu nhạc lớn kịch trường (13)… Hỡi ôi nàng uốn giọng cao kỳ! 

Nous avions tourné les étangs voisins. Voici la verte pelouse, entourée de tilleuls (14) et d'ormeaux (15), où nous avons dansé souvent! J'eus l'amour-propre (16) de définir les vieux murs carlovingiens et de déchiffrer les armoiries (17) de la maison d'Este. " Et vous ! comme vous avez lu plus que moi ! dit Sylvie. Vous êtes donc un savant (18)? "


Chúng tôi đã đi vòng những hồ nước bên. Đây đồng cỏ xanh lục, xung quanh sum sê bồ đề (14) và tiểu du (15), tại đây chúng tôi xưa kia từng đã múa vòng bao phen! Tôi trở cơn tự ái (16), lên tiếng định nghĩa những hàng chữ trên những bức tường carlovingiens (thuộc thời đại các vua chúa Carlovingiens) và giải thích những huy hiệu huy chương (17) nhà họ Este. “Anh! Anh đọc sách hơn em nhiều quá! Thế thì té ra anh là một nhà thông thái (18)?” 

J'étais piqué (19) de son ton de reproche. J'avais jusque-là cherché l'endroit convenable pour renouveler le moment avec l'expansion du matin; mais que lui dire avec l'accompagnement d'un âne et d'un petit garçon très éveillé, qui prenait plaisir à se rapprocher toujours pour entendre parler un Parisien ? Alors j'eus le malheur de raconter l'apparition (20) de Châalis, restée dans mes souvenirs. Je menai Sylvie dans la salle même du château où j'avais entendu chanter Adrienne. " Oh ! Que je vous entende ! lui dis-je; que votre voix chérie résonne sous ces voûtes (21) et en chasse l'esprit (22) qui me tourmente, fût-il divin (23) ou bien fatal (24)! " Elle répéta les paroles et les chants après moi :
Anges (25), descendez promptement Au fond du purgatoire (26) !...


Tôi hơi tức (19) vì giọng nói pha ý phiền trách của nàng. Trước lúc bấy giờ, tôi vẫn loay hoay kiếm chừng một chỗ thích hợp để nói trở lại câu chuyện tâm sự buổi sáng; nhưng biết nói gì với nàng: phía sau, một con lừa lẽo đẽo hai tai, và một thằng bé tò mò tinh ranh, cứ thích len lỏi mò tới gần bên để nghe cái lối nói của ông kẻ chợ Parisien. Và thế đó, tôi đã không may mở miệng kể lại cho nàng nghe sự hiển hiện (20) kỳ ảo tại Châalis, hiện còn nằm trong kỷ niệm của tôi. Tôi dẫn Sylvie vào chính cái căn phòng bữa trước, tại ngay cái chỗ tôi đã nghe Adrienne hát. “Ồ! Tôi chờ nghe em lên tiếng nói! Tôi bảo. Cầu sao cho giọng nói của em hãy dội lên dóng dả dưới những vòm (21) cung điện này, và xua đuổi những thần linh (22) đang day vò đầu óc tôi, dù là thần thiêng liêng hay ác hại (24)!” Nàng lặp lại những lời và điệu hát:

Hỡi thiên thần (25), hay mau mau giáng hiện
Xuống tận cùng tịnh-tội-giới (26) thâm sâu… 

" C'est bien triste ! me dit-elle. − C'est sublime... Je crois que c'est du Porpora, avec des vers traduits au XVIe siècle. − Je ne sais pas ", répondit Sylvie.
Nous sommes revenus par la vallée, en suivant le chemin de Charlepont, que les paysans, peu étymologistes (27) de leur nature, s'obstinent à appeler Châllepont. Sylvie, fatiguée de l'âne, s'appuyait sur mon bras. La route était déserte; j'essayai de parler des choses que j'avais dans le cœur, mais, je ne sais pourquoi, je ne trouvais que des expressions vulgaires, ou bien tout à coup quelque phrase pompeuse de roman (28), − que Sylvie pouvait avoir lue. Je m'arrêtais alors avec un goût tout classique (29), et elle s'étonnait parfois de ces effusions (30) interrompues. Arrivés aux murs de Saint-S..., il fallait prendre garde à notre marche. On traverse des prairies (31) humides où serpentent les ruisseaux. " Qu'est devenue la religieuse ? dis-je tout à coup.
− Ah ! vous êtes terrible avec votre religieuse... Eh bien !... eh bien ! cela a mal tourné. "
Sylvie ne voulut pas m'en dire un mot de plus.

"Thật là buồn bã!" Nàng nói.

"Thật là tuyệt diệu… Anh tưởng đó là của Porpora, với những vần thơ được phiên dịch vào thế kỷ mười sáu."

"Em chẳng rõ", Sylvie trả lời.

Chúng tôi đã quay trở về băng qua thung lũng, men theo con đường Charlepont mà nông dân thuần phác, chẳng cần biết tới cái lẽ phải trái của từ nguyên (27), cứ gọi trại ra thành Châllepont. Sylvie, ngồi trên lưng lừa đã mỏi, tựa mình vào cánh tay tôi. Con đường vắng vẻ; tôi gắng thử tìm cách nói về những nỗi niềm trong dạ, thật tầm thường, hoặc thình lình lại thốt một tiếng rỗng tuếnh tiểu thuyết (28), mà – Sylvie ắt có lẽ đã có đọc qua rồi. Và thế đó, tôi dừng lại theo phong vận rất cổ điển hào hoa (29), và Sylvie đôi lúc đã tỏ vẻ ngạc nhiên trước những tâm sự phơi bày (30) nửa chừng thoắt dứt. Lúc tới sát những bờ tường Saint-Sulpice, thì phải coi chừng cái điệu bước, cái cách đi. Người ta băng qua những nội cỏ (31) ướt át, có những dòng khe uốn éo quanh co. “Cô tu nữ ra sao?” Tôi thình lình hỏi.

"A! Anh thật là kinh khủng với cô nữ tu của anh… Ồ…! Thật là… chuyện cô ta, thật có bề không ổn.”

Sylvie không chịu nói thêm lời nào. 

Les femmes sentent-elles vraiment que telle ou telle parole passe sur les lèvres sans sortir du cœur ? On ne le croirait pas, à les voir si facilement abusées, à se rendre compte des choix qu'elles font le plus souvent : il y a des hommes qui jouent si bien la comédie de l'amour (32)! Je n'ai jamais pu m'y faire, quoique sachant que certaines acceptent sciemment d'être trompées. D'ailleurs un amour qui remonte à l'enfance est quelque chose de sacré... Sylvie, que j'avais vue grandir, était pour moi comme une sœur. Je ne pouvais tenter une séduction (33)... Une tout autre idée vint traverser mon esprit. − A cette heure-ci, me dis-je, je serais au théâtre... Qu'est-ce qu'Aurélie (c'était le nom de l'actrice) doit donc jouer ce soir ? Évidemment le rôle de la princesse (34) dans le drame nouveau. Oh ! le troisième acte, qu'elle y est touchante !... Et dans la scène (35) d'amour du second ! avec ce jeune premier tout ridé...

Có thật rằng đàn bà cảm thấy được rất rõ rằng một lời nọ, một lời kia, thốt ở trên môi, mà không tuôn từ tấc dạ? Không thể nghĩ như vậy được. Cứ xem các nàng bị phỉnh phờ nhầm lẫn quá dễ dàng. Cứ xem các cô chọn lựa thì rõ: có xiết bao kẻ đàn ông đóng thật giỏi cái tuồng cua gái, yêu đương (32)! Tôi chẳng quen nổi với sự đó, mặc dù biết rằng có đôi cô chấp thuận một cách có ý thức cái việc để cho thiên hạ lừa dối. Không cần là thật hay giả. Cứ nghe bừa cho xong. Nhưng tôi biết làm sao được. Vả chăng, một mối tình kết giao từ thuở nhỏ, là một cái gì thiêng liêng… Sylvie, tôi đã thấy nàng từ bé, lớn dần dần, đối với tôi cũng là một đứa em gái. Tôi không thể mở cuộc quyến rũ (33) dã man… Một ý nghĩ khác xuyên qua óc tôi. “Giờ này, tôi tự nhủ, ở Paris ắt là ta đương ở rạp hát… Thế thì Aurélie (tên cô đào) chiều nay đóng vai tuồng gì? Hẳn nhiên là nàng thủ vai công chúa (34) trong vở kịch mới. Ồ! Ở lớp thứ ba, trông nàng thật là đáng yêu nên cảm kích!... Và trong cái xen (35) yêu đương ở lớp hai! Với cái anh chàng một, mặt mày nhăn nhíu… 

" Vous êtes dans vos réflexions ? dit Sylvie, et elle se mit à chanter :
A Dammartin l'y a trois belles filles : L'y en a z'une plus belle que le jour...
− Ah ! méchante ! m'écriai-je, vous voyez bien que vous en savez encore des vieilles chansons.
− Si vous veniez plus souvent ici, j'en retrouverais, dit-elle, mais il faut songer au solide (36). Vous avez vos affaires de Paris, j'ai mon travail; ne rentrons pas trop tard: il faut que demain je sois levée avec le soleil. "


"Anh đang cơn say suy ngẫm?” Sylvie nói và mở môi hát: 

Tại Dammartin có ba cô gái đẹp:
Riêng có một cô đẹp hơn trời mai sớm…
Riêng một cô kiều diễm hơn sớm mai…

 “A! Cô này dã man thật!” Tôi thốt to, thế mà cô dám nói rằng cô không còn biết hát những điệu hát xưa!

“Nếu anh năng lui tới đây nhiều hơn một chút, thì ắt em sẽ nhớ ra nhiều điệu nữa nhưng phải lo nghĩ tới cái gì thiết thực (36). Anh có công việc của anh tại Paris, em có công việc của em tại đây. Đừng về trễ quá. Ngày mai em còn phải lo dậy sớm cho kịp bước mặt trời.”

<<  >>










No comments:

Post a Comment