I. − Nuit perdue
|
I. Đêm lãng phí
|
Je sortais d'un théâtre où tous les soirs je
paraissais aux avant-scènes en grande tenue de soupirant. Quelquefois tout
était plein, quelquefois tout était vide. Peu m'importait d'arrêter mes
regards sur un parterre peuplé seulement d'une trentaine d'amateurs forcés,
sur des loges garnies de bonnets ou de toilettes surannées, − ou bien de faire
partie d'une salle animée et frémissante couronnée à tous ses étages de
toilettes fleuries, de bijoux étincelants et de visages radieux. Indifférent
au spectacle de la salle, celui du théâtre ne m'arrêtait guère, − excepté
lorsqu'à la seconde ou à la troisième scène d'un maussade chef-d'œuvre
d'alors, une apparition bien connue illuminait l'espace vide, rendant la vie
d'un souffle et d'un mot à ces vaines figures qui m'entouraient.
Je me sentais vivre en elle, et elle vivait
pour moi seul. Son sourire me remplissait d'une béatitude infinie; la
vibration de sa voix si douce et cependant fortement timbrée me faisait
tressaillir de joie et d'amour. Elle avait pour moi toutes les perfections,
elle répondait à tous mes enthousiasmes, à tous mes caprices, − belle comme
le jour (1) aux feux de la rampe qui l'éclairait d'en bas, pâle comme la
nuit, quand la rampe baissée la laissait éclairée d'en haut sous les rayons
du lustre et la montrait plus naturelle, brillant dans l'ombre de sa seule
beauté, comme les Heures divines (2) qui se découpent, avec une étoile au
front, sur les fonds bruns des fresques d'Herculanum (3)!
|
Tôi bước ra khỏi rạp hát. Rạp hát mỗi đêm tôi tới ngồi ở dãy ghế đầu ngay
trước sân khấu, vận lễ phục xum xuê của kẻ mê gái mơ màng. Đôi phen rạp hát vắng
teo. Tôi chẳng thiết đưa mắt ngó sân xem hát với đôi ba chục tài tử ham chuộng
miễn cưỡng ngồi tại đó, với những chiếc mũ và y phục lỗi thời. Cũng chẳng thiết
chi cái việc chen chúc ngồi chung một phòng với bọn khán giả ồn ào, với những
thứ điểm trang hoa gấm, với những vòng vàng xuyến ngọc sáng ngời, và những khuôn
mặt lồng lộng tươi vui. Tôi hờ hững với cảnh tượng phòng hát. Cảnh tượng trên
sân khấu cũng chẳng thu hút được tôi – ngoại trừ cái xen thứ nhì hoặc thứ ba
của một kiệt tác buồn thiu thuở đó: lúc bấy giờ, một trận xuất hiện kiều diễm
quen thân bỗng làm rạng ngời khoảng không gian vắng vẻ, và bằng một hơi thở,
bằng một tiếng ngân, bằng một nụ cười hây hây, bỗng trả lại linh hồn sinh động
cho những khuôn mặt nhạt nhẽo ở xung quanh tôi.
Tôi cảm thấy mình rạt rào sống lai láng trong người nàng, và đối với tôi,
chỉ duy có nàng là kẻ sống duy nhất trong thế gian. Nụ cười của nàng mở ra, thì
lòng tôi ngập tràn hạnh phúc; tôi rung động khắp châu thân vì hoan lạc yêu
đương, lúc nghe giọng nói của nàng ngân lên, giọng nói xiết bao êm ái, mặc dù
cao vút lanh lảnh pha chút phiêu bồng trọ trẹ cõi hương giang. Coi tề, tôi trộm
nghĩ thiết tha, nàng mang trong mình xiết bao kiều diễm, nàng đáp lại xiết bao
phấn chấn chiêm bao trong linh hồn tôi nhảy múa, — đẹp như man mác Vu Sơn (1),
tươi như ánh vàng nguyên tiêu của nguyệt, xanh xao như đêm mờ ngất tạnh giá
băng, giữa làn ánh sáng lưu ly mờ tỏ, chiếu tỏa bốn bề bằng lộng lẫy dung nhan,
như những Nữ Thần Eirênê (2)
giữ cửa Thương Khung hiện ra trên nền màu nâu những bức bích họa ở cựu thành Herculanum (3)!
|
Depuis un an, je n'avais pas encore songé à
m'informer de ce qu'elle pouvait être d'ailleurs; je craignais de troubler le
miroir magique qui me renvoyait son image, − et tout au plus avais-je prêté
l'oreille à quelques propos concernant non plus l'actrice (28), mais la
femme. Je m'en informais aussi peu que des bruits qui ont pu courir sur la
princesse d'Elide (4) ou sur la reine de Trébizonde (5), − un de mes oncles,
qui avait vécu dans les avant-dernières années du XVIIIe siècle, comme il
fallait y vivre pour le bien connaître, m'ayant prévenu de bonne heure que
les actrices (28) n'étaient pas des femmes, et que la nature avait oublié de
leur faire un cœur. Il parlait de celles de ce temps-là sans doute; mais il
m'avait raconté tant d'histoires de ses illusions, de ses déceptions, et
montré tant de portraits sur ivoire, médaillons charmants qu'il utilisait
depuis à parer des tabatières, tant de billets jaunis, tant de faveurs
fanées, en m'en faisant l'histoire et le compte définitif, que je m'étais
habitué à penser mal de toutes sans tenir compte de l'ordre des temps.
|
Từ một năm rồi, tôi vẫn không nghĩ tới việc dò xét xem nàng là ai. Nàng từ
đâu tới. Nàng ở đâu về. Tôi sợ sẽ làm hoen mờ cái tấm gương huyền ảo phản chiếu
hình ảnh nàng cho tôi mở mắt ngó hôm nay. Nhiều cho lắm, thì tôi chỉ để tai nghe
vài câu chuyện bàn tán có liên can tới nàng, tới người phụ nữ là nàng, chớ
không phải là tới nàng người ca sĩ (28)
nguy nga. Tôi chẳng để tâm dò hỏi làm chi, nghe thì nghe suông, cũng nghe mơ
màng như nghe chuyện phiêu bồng liên can tới Công Chúa Elide (4) hoặc Hoàng hậu Trébizonde
(5), — một người cậu của tôi, đã sống qua những năm cuối của thế kỷ 18, có sống
thật trong đó thì mới rõ ra thế nào, cậu tôi đã từng sớm cho tôi biết rằng những
cô đào mang linh hồn ca sĩ (28),
thật ra không phải là đàn bà phụ nữ, vì tạo hóa lúc nặn hình hài các nàng, đã
lãng quên không tạc cho các nàng một trái tim. Chắc hẳn là ông ta nói về những
ca nhi (28)
thời xưa, thời đại thế kỷ mười tám, dở dang, những thất vọng, những ngang
trái của ông, và đưa cho tôi ngó bao nhiêu những hình dung trên mặt ngà, những
médaillon mặt ngọc, những hình tượng
mặt vàng (mà ông dùng tô điểm cho những hộp đựng thuốc lá), những tờ thư vàng
úa, những ân huệ mưa móc tàn rơi, kể cho nghe, kể hết, và toán định toàn thể
ván bài lỡ dở nhâm nhi, cho đến nỗi từ đó về sau, tôi đã quen coi mọi ca nhi
đào hát (28)
là thuộc loại người chả đáng chi cho lắm, mà quên mất rằng chuyện thời trước
rất có thể khác hẳn chuyện thời nay.
|
Nous vivions alors dans une époque étrange,
comme celles qui d'ordinaire succèdent aux révolutions ou aux abaissements
des grands règnes. Ce n'était plus la galanterie héroïque comme sous la
Fronde (6), le vice élégant et paré comme sous la Régence (7), le scepticisme
et les folles orgies du Directoire (8); c'était un mélange d'activité,
d'hésitation et de paresse, d'utopies brillantes, d'aspirations
philosophiques ou religieuses, d'enthousiasmes vagues, mêlés de certains
instincts de renaissance (9); d'ennuis des discordes passées, d'espoirs
incertains, − quelque chose comme l'époque de Pérégrinus (10) et d'Apulée
(11). L'homme matériel aspirait au bouquet de roses qui devait le régénérer
par les mains de la belle Isis (12); la déesse éternellement jeune et pure
nous apparaissait dans les nuits, et nous faisait honte de nos heures de jour
perdues. L'ambition n'était cependant pas de notre âge, et l'avide curée qui
se faisait alors des positions et des honneurs nous éloignait des sphères
d'activité possibles. Il ne nous restait pour asile que cette tour d'ivoire
(13) des poètes, où nous montions
toujours plus haut pour nous isoler de la foule. A ces points élevés où nous
guidaient nos maîtres, nous respirions enfin l'air pur des solitudes (24),
nous buvions l'oubli dans la coupe d'or des légendes (25), nous étions ivres
de poésie et d'amour. Amour, hélas ! des formes vagues, des teintes roses et
bleues (26), des fantômes métaphysiques (27)! Vue de près, la femme réelle
révoltait notre ingénuité; il fallait qu'elle apparût reine ou déesse, et
surtout n'en pas approcher.
|
Thuở bấy giờ chúng tôi sống trong một thời đại dị thường, giống những thời
đại nối tiếp những cuộc cách mạng, hoặc những suy vong của những triều đại lớn.
Không còn nữa cái cốt cách phong nhã oanh liệt như dưới thời Đầu Thạch Đảng (6).
Không còn nữa cái lối trụy lạc thanh tao tội lỗi phong vận điểm trang như dưới
đời Nhiếp Chính (7). Không còn nữa cái điệu hoài nghi, cuồng điên truy hoan
như dưới thời Chấp Chính (8). Mà ấy là thời buổi của hoạt động mơ hồ, pha lẫn
những ngại ngùng lười lĩnh, biếng nhác phân vân, những ảo mộng hoàng vân, những
hoàng sa ốc đảo, những trăng tỳ hải, những sương phiêu bồng, những ước vọng
siêu hình, siêu thể, những ý hướng, siêu nhiên, những phấn chấn mông lung, những
chiêm bao bờ cỏ, những tiềm tàng bản tính phục hưng (9), hồi sinh nơi thạch
tượng. Những ưu sầu vì bao cuộc bất hòa quá vãng, những phiền muộn vì linh cảm
những tranh chấp tương lai, những hy vọng đi xuôi về ngược, những u tình vãng
sự như yên, những mây giang nam, những cành sung cũ kỹ, những con chim từ bỏ
nắng chiều… Vâng, có bề giống như những gì của thời đại Pérégrinus (10) và Apulée
(11). Con người vật chất
thô lậu tứ chi, vẫn triền miên mơ tưởng tới cái bó hoa tường vi kỷ độ đâm
bông sẽ đem nhựa tái sinh đi về làm cho tâm linh mới mẻ, sẽ mang trời sương
Hy Lạp về trên làn cánh trắng những phi tuyền tung rơi từ bàn tay Isis (12)
trong triều dâng kỷ niệm nhớ mai sau sắp buông cầm xốc áo… Nữ Thần ôi! Em trường
sinh trẻ dại! Tiên Tử ôi! Em trẻ dại muôn đời. Hồn trinh bạch em kỳ ảo lôi
thôi đi về trong chiêm bao lẽo đẽo trong những tĩnh dạ thâm canh, và kêu gọi
mãi cái lời gì xui lòng ta xấu hổ vì những lời truy hoan lãng phí mất xuân
xanh. Tuy nhiên, tham vọng lai rai không phải là linh hồn của tuổi trẻ chúng
tôi thời đó. Và cái hiệu kèn dón dả vô độ tham lam những vinh quang hão, những
tước lộc hờ, hồ dễ đã cuốn hút chúng tôi đi. Chúng tôi còn một chốn cư trú thiết
tha, một doanh trại nguy nga là ngọn tháp ngà (13) thi sĩ, để đi về xe mộng
thổi thân thể lên trời {theo trận trường phong đổ lộc rung cây, với những mùi
hương bốc ôn hinh (23)
một thuở Đạm Tiên nàng ấy không chồng. Phụng thần hôn tại phiêu bồng dặm
khơi, Thư sinh nhất giới bên trời. Trút nghiên bút mộng trong lời tang du. Đằng
Vương gác ngất non mù. Nguồn man mác gọi sương phù du tuôn…} A ces points élevés où nous guidaient nos
maîtres, nous respirions enfin l'air pur des solitudes, nous buvions l'oubli
dans la coupe d'or des légendes, nous étions ivres de poésie et d'amour… Tại
những đỉnh chơi vơi, theo dấu chân của những bậc thầy hướng dẫn, chúng tôi cuối
cùng đã hô hấp bầu không khí trong veo ở chín tầng thái hư tĩnh mịch (24),
chúng tôi đã uống vào trong tim máu, niềm quên lãng ở giữa lòng những chén
vàng, ly ngọc của những chuyện thần tiên (25), nương tử hoa đường, chúng tôi
đã đê mê với men rượu thi ca và tình ái. Tình ái, hỡi ôi! Ái tình chung đúc
vào những hình thể mơ hồ, những màu hồng thanh lục (26), những bóng ma siêu
thể siêu thần (27). Ngó nhìn gần, người đàn bà thịt da trơn trụi coi có bề rất
đáng bực trước con mắt thơ dại thanh xuân; phải làm sao cho các nường biểu hiện
trong dáng dấp hoàng hậu hoặc nữ thần, và nhất là đừng có dại mà men lại sát
bên tấm quần hoặc tà xiêm của họ. Thì mộng vỡ nhà ma đi đời. Amour, hélas! des formes vagues, des
teintes roses et bleues, des fantômes métaphysiques! Vue de près, la femme
réelle révoltait notre ingénuité; il fallait qu'elle apparût reine ou déesse,
et surtout n'en pas approcher.
|
Quelques-uns d'entre nous néanmoins prisaient
peu ces paradoxes platoniques (14), et à travers nos rêves renouvelés
d'Alexandrie (15) agitaient parfois la torche des dieux souterrains, qui
éclaire l'ombre un instant de ses traînées d'étincelles. − C'est ainsi que,
sortant du théâtre avec l'amère tristesse que laisse un songe évanoui,
j'allais volontiers me joindre à la société d'un cercle où l'on soupait en
grand nombre, et où toute mélancolie cédait devant la verve intarissable de
quelques esprits éclatants, vifs, orageux, sublimes parfois, − tels qu'il
s'en est trouvé toujours dans les époques de rénovation ou de décadence, et
dont les discussions se haussaient à ce point, que les plus timides d'entre
nous allaient voir parfois aux fenêtres si les Huns, les Turcomans ou les
Cosaques n'arrivaient pas enfin pour couper court à ces arguments de rhéteurs
(16) et de sophistes (17).
|
Tuy nhiên một vài đứa trong bọn chúng tôi không chuộng cái loại tư tưởng đăm
chiêu lý tưởng nghịch lý rườm rà nọ (14), và xuyên qua những cơn mộng canh
tân cựu phố Alexandrie (15), đôi lúc họ hươi cao bó đuốc của những Tà Thần hang
hốc âm u, và trong một lúc, chớp lóe lên những đường rẽ lập lòe lửa ngân hoa,
— Và thế đó, bước ra khỏi rạp hát với niềm u sầu chát chát do một cơn mộng tan
tành để rớt lại dư hương, tôi liền chân chạy nhập bọn với một hội anh em gay
cấn chịu chơi, ồn ào yến ẩm. Và thế đó, mối sầu chan chứa đành nhường chỗ, rút
lui khỏi cõi lòng, trước sức tấn công của cái cơn cười vui nhiệt hứng cuồn cuộn
của một vài bộ óc tài hoa nổi bật, linh hoạt mãnh liệt vô song, cao nhã tuyệt
vời đôi lúc, — những bộ óc tài-khí-chịu-chơi như thường gặp vào những thời đại
canh tân cách mệnh, hoặc tàn phế suy đồi, và những cuộc bàn cãi ngửa nghiêng
xiêu đình đổ quán của họ dấy lên tới mức rạch đôi sơn hà, nghiêng trời trí
dũng nào, mà thỉnh thoảng vài đứa, thuộc loại e dè chúng tôi, phải chạy tới
bên cửa sổ xem chừng ngoài kia có đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh,
những bọn Huns, những lũ Turcomans, hoặc những phường Cosaques có ì ầm kéo tới, rút trường
kiếm ra, và đập nát những hiên hoa loạn trụy của bọn hùng biện (16) lơ mơ,
quáng gà dấm dớ, ngụy biện (17) rỗng tuếch, ron ren mơ hồ khía bọt.
|
" Buvons, aimons, c'est la sagesse !
" Telle était la seule opinion des plus jeunes. Un de ceux-là me dit :
" Voici bien longtemps que je te rencontre dans le même théâtre, et
chaque fois que j'y vais. Pour laquelle y viens-tu ? "
Pour laquelle ?... Il ne me semblait pas que
l'on pût aller là pour une autre. Cependant j'avouai un nom. − " Eh bien
!, dit mon ami avec indulgence, tu vois là-bas l'homme heureux qui vient de
la reconduire, et qui, fidèle aux lois de notre cercle, n'ira la retrouver
peut-être qu'après la nuit. "
Sans trop d'émotion, je tournai les yeux vers
le personnage indiqué. C'était un jeune homme correctement vêtu, d'une figure
pâle et nerveuse, ayant des manières convenables et des yeux empreints de
mélancolie et de douceur. Il jetait de l'or sur une table de whist et le
perdait avec indifférence. − " Que m'importe, dis-je, lui ou tout autre
? Il fallait qu'il y en eût un, et celui-là me paraît digne d'avoir été
choisi. − Et toi ? − Moi ? C'est une image que je poursuis, rien de plus.
|
“Nâng cốc lên, nào thôi, các bạn. Uống cho nhiều, yêu cho lắm, đó là cách
điệu hiền thánh chịu chơi, hào hoa số dách, phong nhã một cây, xum xuê tay tổ!”.
Đó là ý kiến bọn trẻ tuổi nhất đám. Một trong những đứa đó bảo tôi: “Cũng đã khá
lâu, tao gặp mày tại cái rạp đó. Trước sau vẫn chỉ một cái rạp nọ mà thôi, mỗi
một phen ta tình cờ lui tới. Thế thì tại cớ mần răng? Mày tới làm chi mà năng
đi năng lại như rứa? Mày lần khân lui tới là tại cái tà xiêm hây hẩy của con
mẻ nào?”
Tại ai?... Tôi tưởng chừng như ngoài nàng ấy ra, thì nhân gian làm sao có
thể tới lui vì một nàng khác? Tuy nhiên, tôi cũng thú nhận một cái tên. Thì thằng
bạn tôi lấy giọng độ lượng bao dung mà rằng: “Ê! Thế ư! Nếu vậy thì mày thấy
đó kia kìa cái thằng cha diễm phúc vừa dẫn nàng đi, và chiếu theo luật tắc tồn
sinh của bang hội chúng mình, nó chỉ trở lại tìm cô nàng có lẽ là sau cái trường
dạ thâm canh.”
Lòng không xúc động quá mức, tôi ngoảnh đầu đưa mắt ngó cái nhân vật mà thằng
bạn vừa chỉ. Đó là một chàng trai ăn vận đứng đắn, gương mặt xanh xanh, có
khí chất, phong thái đoan chính, và hai con mắt đăm chiêu tư lự dịu dàng. Y
vãi đồng tiền vàng trên bàn cờ whist, và thua ván cờ mà vẻ mặt vẫn thản nhiên.
Tôi nói: “Nó, hay một thằng khác, ta có bận lòng chi. Sau trước gì, thì cũng
phải có một thằng đệ đơn, và gã đó xem xứng đáng được chọn lựa lắm. – Còn
mày? – Tao ấy à? Tao theo dõi một hình bóng, chỉ có thế thôi.”
|
Non! ce n'est pas ainsi, ce n'est pas à mon
âge que l'on tue l'amour avec de l'or : je ne serai pas un corrupteur.
D'ailleurs ceci est une idée d'un autre temps. Qui me dit aussi que cette femme
soit vénale ? − Mon regard parcourait vaguement le journal que je tenais
encore, et j'y lus ces deux lignes : " Fête du Bouquet provincial (20).
− Demain, les archers de Senlis doivent rendre le bouquet à ceux de
Loisy." Ces mots, fort simples, réveillèrent en moi toute une nouvelle
série d'impressions : c'était un souvenir de la province depuis longtemps
oubliée, un écho lointain des fêtes naïves de la jeunesse. − Le cor et le
tambour résonnaient au loin dans les hameaux et dans les bois; les jeunes filles
tressaient des guirlandes et assortissaient, en chantant, des bouquets ornés
de rubans.
|
Không! Không thể thế được. Ở cái tuổi của tôi, con người ta không
sát hại tình yêu bằng vàng bạc. Tôi sẽ không bao giờ làm cái gã đem tiền tài
mà phá hoại tình yêu. Vả chăng đó cũng là một ý tưởng thời cũ. Ai nói với tôi
rằng nàng gái nọ là một đàn bà có máu tham mê hơi đồng? Hai mắt tôi mơ hồ đảo
vòng tờ nhật báo một lượt, và tôi đọc: “Hội Đố Lá Lục Tỉnh (20)
— Ngày mai những xạ thủ Senlis sẽ trao bó hoa cho những xạ thủ Loisy“. Những
lời đó, xiết bao đơn giản, bỗng đánh thức dậy trong tôi cả một chuỗi dài hình
ảnh, một tràng dài cảm giác bóng vang: một kỷ niệm vô ngần của mùi hương điền
dã, của châu quận cũ từ hang thẳm lãng quên, tiếng vang xa xôi của những hội
hè nô nức của tóc tơ tuổi nhỏ qua rồi. {“Con đường thẳng con đường cong cỏ mọc.
Nhịp mơ màng những quang gánh lên vai. Hồn tuổi trẻ phiêu bồng trong tơ tóc.
Trút tình hoa rụng gió ở bên ngoài…” – Dư vang tiếng trống tiếng còi. Rập rờn
đầu liễu mộng hoài xanh buông. Xa xôi thôn ổ ngậm buồn. Thanh xuân gái dệt từng
guồng hoa bay. Còn nghe điệu hát nghiêng mày. Sử xanh lần giở bên ngày phù
du. Tráng hoa thêu gấm khơi mù. Giòng tuôn thúy lục xuân thu lên ngàn. Ta về ngóng
lại dư vang. Rồi mai ly biệt lên đàng nhớ-nhung…} Le cor et le tambour résonnaient au loin dans les hameaux et dans les
bois; les jeunes filles tressaient des guirlandes et assortissaient, en
chantant, des bouquets ornés de rubans.
|
En sortant, je passai par la salle de lecture,
et machinalement je regardai un journal. C'était, je crois, pour y voir le
cours de la Bourse (18). Dans les débris de mon opulence se trouvait une somme
assez forte en titres étrangers. Le bruit avait couru que, négligés
longtemps, ils allaient être reconnus; − ce qui venait d'avoir lieu à la
suite d'un changement de ministère. Les fonds se trouvaient déjà cotés très
haut; je redevenais riche.
Une seule pensée résulta de ce changement de
situation, celle que la femme aimée si longtemps était à moi si je voulais. −
Je touchais du doigt mon idéal. N'était-ce pas une illusion encore, une faute
d'impression railleuse ? Mais les autres feuilles parlaient de même. − La
somme gagnée se dressait devant moi comme la statue d'or de Moloch (19).
" Que dirait maintenant, pensai-je, le jeune homme de tout à l'heure, si
j'allais prendre sa place près de la femme qu'il a laissée seule ?..."
Je frémis de cette pensée, et mon orgueil se révolta.
|
Ra khỏi phòng, tôi đi ngang phòng sách, và bỗng ngó một tờ báo. Ấy là để coi
thị giá của chứng khoán (18) thì phải. Trong những mảnh mòn hao của tình trạng
phú dụ tôi, có một ngân khoản ngoại tệ khá to. Nghe đồn rằng, từ bao lâu bỏ lấp,
giờ đây nó sắp được thừa nhận — ấy là do cuộc cải cách bộ viện… Tôi sắp giàu
sang trở lại rồi.
Từ sự vụ đó, một ý tưởng duy nhất nảy ra: người đàn bà tôi yêu từ bao lâu
thổn thức, người đó sắp là của tôi rồi, nếu tôi mà chịu muốn. – Lý tưởng vô ngần
lục thanh tơ cỏ, tôi đương chạm nhè nhẹ vào hình hài của nó, ở đầu ngón tay
tôi. Thật ư? Hay là chả thật? Hay lại là một huyễn tượng nữa? Hay lại do một
lỗi ấn loát oái oăm của nhật báo? Nhưng những tờ khác cũng nói hệt như thế. –
Cái số tiền đồ sộ bỗng dựng sững hình hài trước mặt tôi như một tượng vàng Moloch (19). Tôi thầm nhủ: “Gã thanh niên khi nãy sẽ nghĩ thế
nào, sẽ ăn nói thế nào, nếu tôi tới bên cô nàng kia mà ngồi vào cái chỗ của
gã?...”. Tôi bỗng run lên một cái: niềm kiêu hãnh của linh hồn không chấp thuận
chuyện kia.
|
− Un lourd chariot, traîné par des bœufs,
recevait ces présents sur son passage, et nous, enfants de ces contrées, nous
formions cortège avec nos arcs et nos flèches, nous décorant du titre de
chevaliers (21), − sans savoir alors que nous ne faisions que répéter d'âge
en âge une fête druidique (22) survivant aux monarchies et aux religions
nouvelles.
|
Một chiếc xe bò ì ạch đón nhận những tặng phẩm kia bên đường, còn chúng tôi,
những đứa con thơ của những miền xứ nọ, chúng tôi kết hợp thành hàng lũ lượt
tới lui, chân bước, chân bồng, gối tròn gối méo, tay ẵm, tay ôm, những vòng
cung thánh thót, những mũi tên mơ mòng, tự ban cho mình cái danh hiệp sĩ (21)
cổ sơ hồng hoang phiêu dạt – không biết rằng mình đang lặp lại giữa những thời
đại tiếp tiếp điệp trùng, một buổi hội nữ vu (22) tháng ba xuân sắc, còn lưu
mãi trong cổ lục truyền qua sóng lớp phế hưng. – Un lourd chariot, traîné par des bœufs, recevait ces présents sur
son passage, et nous, enfants de ces contrées, nous formions cortège avec nos
arcs et nos flèches, nous décorant du titre de chevaliers, – sans savoir
alors que nous ne faisions que répéter d’âge en âge une fête druidique,
survivant aux monarchies et aux religions nouvelles.
|
@ Tác giả: Gérard de Nerval @ Sylvie - Souvenirs du Valois @ Dịch giả: Bùi Giáng @ Mùi Hương Xuân Sắc @ Chú thích: Đặng Thế Kiệt
Search This Blog
Thursday, December 3, 2015
I. − Nuit perdue / Đêm lãng phí
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment