VI. − Othys
|
VI. Othys
|
Au sortir du
bois, nous rencontrâmes de grandes touffes de digitale pourprée (1); elle en
fit un énorme bouquet en me disant : " C'est pour ma tante; elle sera si
heureuse d'avoir ces belles fleurs dans sa chambre. " Nous n'avions plus
qu'un bout de plaine à traverser pour gagner Othys. Le clocher du village
pointait sur les coteaux bleuâtres qui vont de Montméliant à Dammartin. La
Thève bruissait de nouveau parmi les grès (30) et les cailloux (31), s'amincissant au
voisinage de sa source, où elle se repose dans les prés, formant un petit lac
au milieu des glaïeuls (3) et des iris (3). Bientôt nous gagnâmes les
premières maisons. La tante de Sylvie habitait une petite chaumière bâtie en
pierres de grès (32) inégales que revêtaient des treillages de houblon (5) et de
vigne vierge (6); elle vivait seule de quelques carrés de terre que les gens
du village cultivaient pour elle depuis la mort de son mari. Sa nièce
arrivant, c'était le feu dans la maison. " Bonjour, la tante ! Voici vos
enfants! dit Sylvie; nous avons bien faim (7). " Elle l'embrassa
tendrement, lui mit dans les bras la botte de fleurs, puis songea enfin à me
présenter, en disant: " C'est mon amoureux ! "
|
Ra khỏi khu rừng, chúng tôi
gặp lại được những chùm mao-địa-hoàng (1),
tục gọi là hoa lồng đèn, màu tía rộng thênh thênh. Nàng vói tay bắt lấy, kết
làm bó to và bảo: “Cái này để tặng ngoại em. Bà sẽ vui xiết bao được có những
chùm hoa lộng lẫy thế ở trong phòng.” Chỉ còn một quãng đường qua cánh đồng
chút xíu, là chúng tôi sẽ tới nơi xóm Othys. Tháp chuông làng chang chang dựng
ngọn nhọn hoắt trên dãy đồi tím lục pha lam, giăng giăng trùng điệp, nối liền
hai quận Montméliant và Dammartin. Giòng sông Thève biêng biếc lại xào xạc trở
cơn giữa những đá, những nham (30), những ngổn ngang sa thạch (31), giòng sông bỗng nhỏ
lại dần dần, lúc chúng tôi ngược giòng về gần bên nguồn cội. Tại đó, giòng
khe nằm duỗi thân yên nghỉ giữa những nội cỏ lai láng, làm thành một cái hồ
nho nhỏ giữa những bụi glaïeuls (3)
và những chùm iris (3)
(vong ưu thảo – cỏ huyên – và diên vỹ) đang reo vàng yểu điệu hà thanh (3).
Chẳng bao lâu, đã tới sát những nóc nhà tranh đầu xóm. Bà ngoại dì của Sylvie
cư trú trong một ngôi nhà nhỏ làm bằng đá nham (32) lủng củng, hòn to, hòn nhỏ, có
những dây leo hốt bố (5)
đan mắt cáo vào những nhành bạch anh (6).
Bà ta sống một mình ưa du nhàn rỗi với vài mảnh vuông ruộng đất, nhà những
nông dân trong làng cày bừa, tỉa hột giúp cho, kể từ ngày chồng bà mất đi. Đứa
cháu gái tới, thì thật như là gieo lửa ngọt vào cửa tưng bừng. “Chúng cháu
đây, chúng cháu chào bà dì khỏe mạnh! Chúng cháu đói như thiên lôi (7). Coi tề.
Bà dì mạnh giỏi chứ?” Đứa cháu ôm bà dì mà hôn thật dịu dàng, đặt bó hoa vào
hai cánh tay bà dì rồi mới sực nhớ ra, giới thiệu: “Đó là người tình của cháu
đó!”
|
J'embrassai à mon tour la tante qui dit :
" Il est gentil... C'est donc un blond (33) !... − Il a de jolis cheveux
fins, dit Sylvie. − Cela ne dure pas, dit la tante; mais vous avez du temps
devant vous, et toi qui es brune, cela t'assortit bien. − Il faut le faire
déjeuner, la tante, dit Sylvie. " Et elle alla cherchant dans les
armoires, dans la huche, trouvant du lait, du pain bis, du sucre, étalant
sans trop de soin sur la table les assiettes et les plats de faïence émaillés
de larges fleurs et de coqs au vif plumage. Une jatte en porcelaine de Creil,
pleine de lait où nageaient les fraises (8), devint le centre du service, et
après avoir dépouillé le jardin de quelques poignées de cerises (9) et de
groseilles (10), elle disposa deux vases de fleurs aux deux bouts de la nappe.
Mais la tante avait dit ces belles paroles : " Tout cela, ce n'est que
du dessert (34). Il faut me laisser faire à présent. " Et elle avait décroché
la poêle (35) et jeté un fagot dans la haute cheminée. " Je ne veux pas que
tu touches à cela ! dit-elle à Sylvie, qui voulait l'aider; abîmer tes jolis
doigts qui font de la dentelle plus belle qu'à Chantilly ! tu m'en as donné,
et je m'y connais. − Ah ! oui, la tante !... Dites donc, si vous en avez des
morceaux de l'ancienne, cela me fera des modèles. − Eh bien ! va voir
là-haut, dit la tante, il y en a peut-être dans ma commode. − Donnez moi les
clefs, reprit Sylvie. − Bah ! dit la tante, les tiroirs sont ouverts. − Ce
n'est pas vrai, il y en a un qui est toujours fermé. " Et pendant que la
bonne femme nettoyait la poêle après l'avoir passée au feu, Sylvie dénouait
des pendants de sa ceinture une petite clef d'un acier ouvragé (10) qu'elle
me fit voir avec triomphe.
|
Tôi cũng ôm bà dì mà hôn. Bà bảo: “Nó ngộ lắm…
Té ra tóc nó vàng hoe hoe (33)…” – Nó có tóc vàng hoe thật mịn, Sylvie nói. – Tóc
vàng hoe thì không ở lại lâu dài, bà dì nói, nhưng mà chúng bay tuổi trẻ thì
còn chán thời giờ thừa thãi ra đó. Còn cháu là con gái, tóc nâu thì thật là
ăn hợp với khuôn mặt cháu lắm. – Phải kiếm cái chi cho nó điểm tâm, dì ạ,” Sylvie bảo. Và
nàng chạy tìm trong tủ, trong thùng, kiếm sữa, bánh, đường, lôi ra, đặt ngổn
ngang trên bàn nào dĩa bé, nào tô sành, chén sỏi, bầu son, có vẽ những hình
hoa thật bự, và những con gà trông rực rỡ màu lông, cẳng cao, giò thấp. Một
cái lu bằng sứ Creil, đầy ăm ắp sữa, lênh đênh mấy trái dâu tây (8), đó là
trung tâm bữa tiệc, và sau khi ra vườn hái trụi một mớ quả anh đào (9), em mận,
út lê, bé phúc bồn tử (10),
nàng đặt hai bình hoa tươi tốt ở đầu kia cuối nọ trên bàn. Nhưng bà dì lại
thong dong nói cái lời thật tốt: “Mấy cái đó, chỉ là ăn qua loa tráng miệng (34).
Bây giờ phải để cho dì làm mà coi”. Và bà dì với tay vói lấy cái chảo (35) cán
dài, bỏ một thanh củi bự vào lò bếp lửa. “Dì không muốn cháu mó tay vào cái
đó! Bà dì nói lúc thấy Sylvie chạy lại giúp bà. Để dì lo cho. Cháu mà mó vào
thì còn chi mấy cái ngón tay dệt đen-ten tươi tốt, tốt hơn cả đen-ten
Chantilly! Cháu có gửi bà một tấm, bà biết coi lắm chớ phải chơi mô. – A! Thật
đó, dì ạ… Ô, nếu mà dì còn giữ những tấm thời xa xưa nào đó coi thử một chút.
Cái đó làm mẫu cho con thêu, thì tốt lắm. Ừ, ừ! Con lên trên gác mà tìm, chắc
có lẽ còn đâu ở trên đó ở trong cái hòm cũ ấy mà. – Dì đưa chìa khóa cho con.
– Hừ! Cái hòm vẫn không có
khóa lại đâu. – Dì nói không thật đó, con biết. Có một cái hòm suốt năm dì
khóa thật kỹ.” Và trong khi bà dì loay hoay rửa cái chảo, Sylvie lục đục len
lén mở cái dải dây lưng buông thõng của bà đìu hiu lay lắt ở phía sau và rút
ra một chiếc chìa khóa nhỏ bằng thép trui tinh tế (10), và cho tôi nhìn qua một
cái, vẻ mặt nàng hân hoan khôn tả.
|
Je la suivis, montant rapidement l'escalier de
bois qui conduisait à la chambre. − O jeunesse, ô vieillesse saintes ! − qui
donc eût songé à ternir la pureté d'un premier amour dans ce sanctuaire (11)
des souvenirs fidèles ? Le portrait d'un jeune homme du bon vieux temps
souriait avec ses yeux noirs et sa bouche rose, dans un ovale (36) au cadre doré,
suspendu à la tête du lit rustique. Il portait l'uniforme des gardes-chasse
(12) de la maison de Condé (13); son attitude à demi martiale, sa figure rose
et bienveillante, son front pur sous ses cheveux poudrés, relevaient ce
pastel (37), médiocre peut-être, des grâces de la jeunesse et de la simplicité (38).
Quelque artiste modeste invité aux chasses (39) princières s'était appliqué à le
pourtraire de son mieux, ainsi que sa jeune épouse, qu'on voyait dans un
autre médaillon (40), attrayante, maligne, élancée dans son corsage ouvert à
échelle de rubans, agaçant de sa mine retroussée un oiseau posé sur son
doigt. C'était pourtant la même bonne vieille (41) qui cuisinait en ce moment,
courbée sur le feu de l'âtre. Cela me fit penser aux fées des Funambules (42) qui
cachent, sous leur masque ridé, un visage attrayant, qu'elles révèlent au
dénouement (43), lorsque apparaît le temple (44) de l'Amour et son soleil tournant qui
rayonne de feux magiques. " O bonne tante, m'écriai-je, que vous étiez
jolie ! − Et moi donc ? " dit Sylvie, qui était parvenue à ouvrir le
fameux tiroir. Elle y avait trouvé une grande robe en taffetas flambé (14),
qui criait du froissement de ses plis. " Je veux essayer si cela m'ira,
dit-elle. Ah ! je vais avoir l'air d'une vieille fée ! "
|
Tôi theo chân nàng leo lên gác. Hỡi ôi, tuổi trẻ thiêng liêng, tuổi già
khả kính! Ai có bao giờ nghĩ tới cái việc đi làm hoen ố miền thanh khiết của
một cõi ân tình thứ nhứt trong một vùng thánh điện (11) những kỷ niệm thủy
chung? Một bức chân dung của một chàng trai thời vàng son xưa lai láng, với
hai con mắt đen, và miệng đỏ, trong một khung gương hình thuẫn (36) nạm vàng, treo
tại đầu chiếc giường mộc mạc. Chàng vận lễ phục giám thủ sơn lâm (12) cho
dòng họ Condé (13), dáng điệu nửa võ dũng, nửa nông dân, gương mặt hồng hào độ
lượng, vừng trán bao dung dưới mái tóc man mác sương phấn nhuốm mơ hồ, đã làm
cho bức họa bằng than chì màu (37) (tầm thường kia, có lẽ) trở thành nặng ý nghĩa
chiêm bao: những diễm kiều tuổi trẻ những quyến rũ của điền dã đơn sơ (38). Một
nghệ sĩ lai rai nào xưa được mời dự cuộc săn (39) vương giả, đã gắng gỗ họa tấm
chân dung bằng kiệt tận miên bạc của mình, và họa luôn người vợ trẻ, bây giờ
ta còn nhìn thấy trong chiếc médaillon (40) kia, người vợ xinh tươi, ranh mãnh,
yêu kiều, mình mẩy thon thon trong chiếc áo cánh, đang nguếch ngoác gương mặt
để chọc ghẹo một con chim đậu trên ngón tay nho nhỏ của mình. Hỡi ôi, cũng vẫn
chính là một người, một kẻ, với bà dì già nua mộc mạc (41) hiện đang cúi mình trên
lò bếp, đang lom khom nấu nướng, dưới kia… Tôi chợt nhớ tới những tiên nương
trong những hội Leo dây (42) thời trước vốn che giấu khuôn mặt mình dưới tấm mặt nạ
lổ đổ nhăn nhíu, cho tới lúc chung cục (43), mới phơi mở ra tràn lan trên bốn biển
một nhà, khi điện đài (44) vòi või của Tình Yêu hiện ra với vầng nhật xoay vòng
chiếu những tia ngời kỳ ảo. Tôi reo to: “Ôi bà dì của cháu! Dì từng đã đẹp vô
ngần ngày xưa!” – Còn em thì sao? Sylvie hỏi, sau khi đã hì hục mở được cái
ngăn tủ kỳ bí. Nàng đã tìm ra được một chiếc áo dài bằng nhung mỏng lơ thơ lập
lòe lửa lựu (14),
đang xào xạc kêu to trong những nếp lằn bị bàn tay vuốt. “Em muốn vận vào
mình xem thử có xuôi không nào, nàng bảo. A! Em sắp mang vẻ mặt một bà tiên
già nua bước tới.”
|
" La fée des légendes (45) éternellement jeune
!..." dis-je en moi-même. − Et déjà Sylvie avait dégrafé sa robe
d'indienne (15) et la laissait tomber à ses pieds. La robe étoffée de la
vieille tante s'ajusta parfaitement sur la taille mince de Sylvie, qui me dit
de l'agrafer. " Oh ! les manches plates, que c'est ridicule ! "
dit-elle. Et cependant les sabots garnis de dentelles découvraient
admirablement ses bras nus, la gorge s'encadrait dans le pur corsage aux
tulles jaunis, aux rubans passés, qui n'avait serré que bien peu les charmes
évanouis de la tante. " Mais finissez-en ! Vous ne savez donc pas
agrafer une robe ? " me disait Sylvie. Elle avait l'air de l'accordée de
village (17) de Greuze (18). " Il faudrait de la poudre, dis-je. − Nous
allons en trouver. " Elle fureta de nouveau dans les tiroirs. Oh ! que
de richesses ! que cela sentait bon, comme cela brillait, comme cela
chatoyait de vives couleurs et de modeste clinquant! deux éventails de nacre
(19) un peu cassés, des boîtes de pâte à sujets chinois (20), un collier
d'ambre (21) et mille fanfreluches (22), parmi lesquelles éclataient deux
petits souliers de droguet (23) blanc avec des boucles incrustées de diamants
d'Irlande (24)! " Oh ! je veux les mettre, dit Sylvie, si je trouve les
bas brodés (25) ! "
|
“Bà tiên vạn đại hoang đường (45) thiên thu còn trẻ
mãi!...” tôi tự nhủ trong lòng. Và Sylvie đã mở xong cúc nút chiếc áo vải
bông ngũ sắc (15) của mình, và thả rớt nó xuống bên chân. Chiếc áo nhung thưa
của bà dì, nàng vận vào rất sít sao trên tấm hình hài dong dỏng trong veo,
nàng bảo tôi hãy cài giùm hột cúc. “Ồ! Những tay áo không nếp phồng, thật buồn
cười quá!” nàng bảo. Tuy nhiên thật ra những cánh tay áo thêu thùa đen-ten đã
phơi bày lồ lộ tuyệt vời hai cánh tay trần mịn màng của Sylvie, cổ trắng mượt
của nàng nằm vừa vặn trong lớp áo mù sương nhuộm úa sơn hà, ắt hẳn phải hơn
là vận vào trên hình hài bà dì mà dung nhan đã biến. “Mau mau lên chớ! Coi tề.
Cài một cúc áo mà anh cài mãi không xong. Anh còn bé con lắm hả?” Sylvie nói.
Trông nàng có vẻ vị-hôn-thê thôn dã (17) của Greuze (18). “Phải cần có phấn mới
được, tôi nói. Chúng ta tìm thử coi.” Nàng lại sục sạo trong các ngăn tủ. Ô!
Xiết bao của cải! sao mà mùi hương cũ thơm lừng! sao mà cái này chói rạng,
cái nọ chói ngời, cái kia chói chiếu, chói chang những sắc, những màu tàn
phai trong quá khứ! Hai chiếc quạt xà cừ (19), có sứt gãy chút ít, hai hộp bột
nhồi (20), một chiếc vòng hổ phách (21) đăm chiêu và hàng ngàn hư trang huyễn
sức (22), và giữa đám ngổn ngang trang điểm nọ, bỗng một mùa thu vạn đại đi về
trong hai chiếc hài thêu gấm (23) tuyết băng với những chùm hoa nạm hột kim
cương khuynh thành lá ngọc irlandaise (24). “Ồ! Em muốn mang vào, Sylvie nói,
nếu em tìm ra những chiếc vớ gấm thêu băng cẩm nhung hoặc là nhung cẩm (25)
cũng được!”
|
Un instant après, nous déroulions des bas de
soie rose tendre à coins verts (26); mais la voix de la tante, accompagnée du
frémissement de la poêle, nous rappela soudain à la réalité (27). "
Descendez vite ! " dit Sylvie, et quoi que je pusse dire, elle ne me
permit pas de l'aider à se chausser. Cependant la tante venait de verser dans
un plat le contenu de la poêle, une tranche de lard frite (28) avec des œufs.
La voix de Sylvie me rappela bientôt. " Habillez-vous vite ! "
dit-elle, et entièrement vêtue elle-même, elle me montra les habits de noces
du garde-chasse (29) réunis sur la commode. En un instant, je me transformai
en marié de l'autre siècle. Sylvie m'attendait sur l'escalier, et nous
descendîmes tous deux en nous tenant par la main. La tante poussa un cri en
se retournant: " O mes enfants ! " dit-elle, et elle se mit à
pleurer, puis sourit à travers ses larmes. − C'était l'image de sa jeunesse,
− cruelle et charmante apparition ! Nous nous assîmes auprès d'elle,
attendris et presque graves, puis la gaieté nous revint bientôt, car, le
premier moment passé, la bonne vieille ne songea plus qu'à se rappeler les
fêtes pompeuses de sa noce. Elle retrouva même dans sa mémoire les chants
alternés, d'usage alors, qui se répondaient d'un bout à l'autre de la table
nuptiale, et le naïf épithalame qui accompagnait les mariés rentrant après la
danse. Nous répétions ces strophes si simplement rythmées, avec les hiatus et
les assonances du temps; amoureuses et fleuries comme le cantique de l'Ecclésiaste;
− nous étions l'époux et l'épouse pour tout un beau matin d'été.
|
Một lát sau, chúng tôi mở những cuộn vớ ra, vớ nhung, vớ nhớ, vớ vẩn, vớ lục
hoàng sa, vớ hà giang thúy lục, vớ hồng đào đỏ mượt, vớ dệt gấm xanh lơ (26)…
Bỗng tiếng gọi của bà dì nấu nướng rung chảo ở dưới đưa chúng tôi về thực tại
ngu ngơ (27). “Mau mau leo xuống!” Sylvie bảo. Và mặc dù tôi nói gì thì nói,
nàng cũng không cho phép giúp nàng một tay để mang giùm vớ vào cho hai chân
nàng nữa. Trong lúc đó, bà dì ở dưới vừa trút vào trong dĩa cái món ăn xèo
xèo trong chảo ra, tiếng mỡ chiên (28) ríu rít bên trứng xào líu lo. Tiếng
Sylvie lại trổi dậy: “Anh mau mau vận y phục này vào!” nàng bảo tôi, nàng đã
vận xong xuôi từ đầu tới cẳng đến chân, nàng mới chìa cho tôi bộ y phục hôn lễ
của ông giám thị sơn lâm (29). Trong một nháy, tôi biến làm chàng trai cưới vợ
thế kỷ trước. Sylvie chờ tôi tại cầu thang, và cả hai chúng tôi song song bước
xuống, đề huề tay chị nắm tay em. Bà dì kêu to một tiếng lúc ngoảnh lại nhìn:
“Ồ các con ôi!”, rồi bà vùng sa nước mắt khóc như mưa rớt hột hai hàng, rồi mỉm
cười trong ánh lệ. Hình ảnh xuân xanh của dì, cơn hiển hiện đau lòng xót dạ,
diễm kiều trong tình mộng nhắn nhe! Chúng tôi ngồi xuống bên dì, bàng hoàng cảm
động và bùi ngùi trang nghiêm, rồi niềm vui tươi trở lại, bởi vì, phút giây đầu
khúc khuỷu đã đi qua, bà dì già nua chỉ còn mơ mòng nghĩ tới những hội hè buổi
mới hôn lễ tưng bừng. {Rằng trong buổi mới lạ lùng. Hai lòng một cuộc phiêu bồng
dậy cơn. Xanh buông đầu liễu rập rờn. Lời ca, điệu hát, dì còn nghe vang. Đong
đưa chúc phúc hàng hàng. Lời trong tiếng cũ lên đàng gọi nhau. Người nghe kẻ
nói nghiêng đầu. Chúng tôi thành mộng căn lầu bình minh. Một thời mùa hạ sơ sinh.
Em dàn tơ tóc bên mình chiêm bao. Mùa vang xa biệt hội nào. Tôi bây giờ dậy
biển trào lên khơi. Mùa vang sóng vỗ bên đời. Còn trang phương cảo thu rời
chân đi.}
|
@ Tác giả: Gérard de Nerval @ Sylvie - Souvenirs du Valois @ Dịch giả: Bùi Giáng @ Mùi Hương Xuân Sắc @ Chú thích: Đặng Thế Kiệt
Search This Blog
Sunday, December 6, 2015
VI. − Othys
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment